Lúc Ðức Phật còn tại thế, Ngài đã đem Chính pháp phú chúc cho các vị quốc vương và đại thần, để truyền bá Phật pháp được phổ biến hơn.
Vua A Dục vốn là dòng dõi của A Xà Thế vương, thân phụ của Ngài tên là Tần Ðầu Sa, thân mẫu thuộc phái Bà La Môn. Khi Ngài còn nhỏ thì thân thể rất thô kệch xấu xí không được vua cha thương yêu. Ðến lúc Ngài trưởng thành thì xuất chúng hơn người.
Nội loạn tại thành Hưu Thị La xảy ra, vua cha bèn sai Ngài đi chinh phục. Khi đâu đó được bình yên, vua cha thấy Ngài có công lao nên phong làm Thái tử.
Ít lâu sau, vua Tần Ðầu Sa băng hà thì Ngài lên kế vị. Tính tình rất tàn bạo, đã giết hết mất trăm người tôi tớ, đại thần và các thân thuộc.
Mùa xuân năm ấy, Ngài mới dẫn các cung nữ đi thưởng ngoạn vườn hoa. Các cung nữ chỉ mải đùa giỡn và trầm trồ khen ngợi vẻ đẹp thiên nhiên. Chẳng ai quây quần bên Ngài như lúc ở nội điện. Vua đùng đùng nổi giận, truyền lệnh bắt giết tất cả, rồi ngay lập tức trở về cung, không đi thưởng ngoạn nữa. Toàn dân trong nước đều ta thán Ngài là một ông vua đại gian ác.
Ðã vậy, Ngài còn lập ra một nơi gọi là: “Ðịa ngục trần gian”, đặt tên là vườn “Ái Lạc”. Bên ngoài thì bài trí rất đẹp, nào là ao sen non bộ, cỏ quý hoa thơm, hệt như một công viên, để nhân dân kéo đến vui chơi. Nhưng bên trong, thì có non đao rừng kiếm, lò lửa vạt dầu, và đủ các món khí cụ để hành hình người một cách ghê rợn.
Hễ người nào vào trong vườn Ái Lạc đó thì cai ngục bắt giam, rồi cứ hành hình. Còn những thế nữ ở trong cung mà cãi cọ, xung đột với nhau, thì bắt đem vào cho chủ ngục phân xử. Quả thực là một thảm trạng thống khổ không tài nào kể xiết của nhân gian.
Khi ấy có một vị Tỳ kheo. Nhân lúc đi khất thực nơi thành Hoa Thị, vì không thông thuộc đường xá nên lạc vào vườn “Ái Lạc”. Nhìn thấy cảnh tượng bên ngoài thì tốt đẹp còn phía trong là một chốn địa ngục, thầy Tỳ kheo kinh hoảng, định kiếm đường trở ra, ai ngờ bị ngục tốt vây bắt lại. Thầy cố gắng nài nỉ đến nỗi bật khóc mà bọn họ vẫn không dung thứ.
Chủ ngục thấy vậy, liền hỏi:
– “Thầy là người tu hành, sao mà sợ chết đến đỗi khóc như con nít vậy?”
Thầy Tỳ kheo đáp:
– “Tôi không phải sợ chết mà khóc, mà vì sợ mất lợi ích cả một đời người của tôi, nên mới ai bi như thế”.
Chủ ngục tò mò hỏi:
– “Lợi ích làm sao? thầy bày tỏ cho tôi nghe thử?”
Thầy Tỳ kheo bộc bạch:
– “Số là tôi mới xuất gia, chưa chứng đặng đạo quả. Tôi nghĩ lại thân người khó đặng, Phật pháp khó gặp, nay rủi sa vào chỗ ác địa này, thế nào cũng sẽ hủy mạng, thì còn đâu mà tu học nữa nên tôi mới khóc, chứ tôi đâu sợ chết”.
Thầy Tỳ kheo nói xong, mới khẩn cầu chủ ngục tha tội cho Thầy sống sót trong bảy ngày, rồi hành hình cũng không muộn. Chủ ngục thấy người tu thì cũng động tâm. Vậy nên y theo lời của thầy, đình lại bảy ngày mới hạ thủ.
Ngày đầu, thầy Tỳ kheo nhìn thấy cách hành phạt rất độc ác, nào là người phụ nữ bị bỏ vào cối quết người, thịt nát xương tan; trẻ em bị quăng vào lò lửa, đứa thì rút tay co cổ, đứa thì hả miệng nhăn răng.
Thầy Tỳ kheo thấy cảnh tượng ấy thì sinh lòng nhàm chán, mới nhớ lời Phật dạy rằng: “Sắc lịch dịu dàng dường như bọt nhóm, dung y đẹp đẽ mà đâu còn hoài”. Nhờ chỗ dẫn chứng lời của Phật dạy đó mà thầy tỉnh ngộ, dứt hết các đều tạp nhiễm, liền chứng đặng quả A La Há.
Ðến ngày thứ tám, ngục tốt bèn bắt thầy bỏ vào chảo dầu, rồi chất củi mà đốt. Nhưng khi lửa hạ và củi thành tro mà dầu trong chảo vẫn không hề nóng lên.
Chủ ngục thấy thế liền nổi giận, đánh đập bọn ngục tốt, rồi sai đem thêm củi và chụm thêm vào. Nhưng đến khi xem lại trong chảo dầu thì thấy thầy Tỳ kheo ngồi kiết già trên hoa sen, dáng vẻ vẫn tự nhiên, chẳng hề lay động. Chủ ngục hoảng hốt, lật đật đến tâu chuyện cho vua A Dục.
Khi vua nghe tin xong, liền tức tốc đi thẳng đến vườn Ái Lạc.
Vừa vào đến nơi thì thấy thầy Tỳ kheo hiện thân trong hư không, biên đủ mười tám phép thần thông. Trên mình thì nước tràn lênh láng, phía dưới thì lửa cháy rần rần, trông như một hòn núi lớn ở giữa không gian vậy.
Vua A Dục đứng nhìn sửng sốt hồi lâu, rồi tự nghĩ: “Mình với Thầy Tỳ kheo này cũng đều là loài người, cớ sao Thầy lại đặng phép thần thông tự tại như thế, còn mình thì lo việc sát hại nhân dân, làm việc đại ác?
Vua nghĩ như thế nên vội vàng quỳ xuống, nói với vị Tỳ kheo ấy rằng:
– “Mong Thánh giả chiếu cố đến ta, xin hạ xuống nơi đây, ta nguyện từ nay về sau bỏ dữ làm lành, quy y với Ngài”.
Thầy Tỳ kheo đáp:
– “Hay thay! Hay thay! Nay đại vương đã tự hối mà quy đầu Tam bảo, thì sẽ đặng phước đức vô cùng. Thật hân hạnh cho dân chúng biết bao”.
Thầy Tỳ kheo nói xong, liền dùng thần lực của mình mà trở về tịnh xá.
Khi vua A Dục đã quy y theo Phật, trong lòng hân hoan, định sửa soạn trở về cung. Bỗng người chủ ngục đến tâu:
– “Khi Ðại vương lập ra cảnh “Nhân gian địa ngục” này, có ra lệnh hễ ai vào đây thì không cho ra. Tôi đã thọ mạng rồi, nên không dám cãi. Còn Ðại vương là bực thiên tử cũng phải nhất ngôn mới được”.
Nghe chủ ngục nói như thế, vua A Dục mới hỏi:
– “Cứ theo lời của nhà ngươi nói đó, thì bây giờ nhà ngươi muốn giết ta hay sao?”
Chủ ngục đáp:
– “Quả như lời của Ðại Vương đó, thì mới đúng với quân lệnh”.
Vua A Dục liền hỏi lại chủ ngục:
– “Vậy khi ban sơ tạo vườn Ái Lạc này, nhà ngươi với quả nhân ai vào đây trước?”
Chủ ngục thưa:
– “Tâu Ðại vương, là tôi vào đây trước”.
Vua nghe đáp như vậy, tức thì truyền cho ngục tốt áp lại bắt chủ ngục bỏ vào chảo dầu, đồng thời ra lệnh phóng hỏa đốt hết cả vườn Ái Lạc.
Từ đấy về sau, vua bỏ hẳn các điều dữ mà làm những việc lành và tâm tánh hết sức từ bi nên dân gian ca tụng là Ðạt Ma A Dục Vương (tức nghĩa là “ông vua hiền lành”).
Sau lại nhờ Đức Ưu Ba Cúc Ða (Tổ thứ tư) giáo hóa thêm, nên vua càng tín ngưỡng Phật pháp hơn nữa, chính vua đã phái 256 vị Cao tăng đi khắp trong xứ để truyền bá Phật giáo.
Bài học cho chúng ta: Từ bi là cội nguồn của hạnh phúc.